Tranh chấp tiền lãi trong hợp đồng mua bán hàng hóa

Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất và thương mại TL và Công ty cổ phần đầu tư sản xuất động cơ phụ tùng và lắp ráp ô tô, xe máy T cùng thỏa thuận và ký kết một số hợp đồng kinh tế. Theo các hợp đồng kinh tế số 01/XNTL-L1/HĐKT ngày 01/10/2009, số 02/XNTL-L1/HĐKT ngày 12/7/2009, số 03/XNTL-L1/HĐKT ngày 01/10/2009, hai bên thỏa thuận:

 Công ty TL bán cho Công ty T vành xe máy gồm: vành trước là 60.000 cái, vành sau là 60.000 cái. Tổng giá trị cả 03 hợp đồng là 4.909.080.000 đồng, kèm theo thỏa thuận thanh toán theo từng hóa đơn xuất hàng trong vòng 30 ngày kể từ ngày Công ty TL giao hàng.

Hợp đồng số 01/MTL-L1/HĐKT ngày 12/11/2009, Công ty TL bán cho Công ty T 15.000 mặt nạ nhựa, tổng giá trị hợp đồng là 67.500.000 đồng và thỏa thuận thanh toán trong vòng 20 ngày kể từ ngày giao nhận hàng.

Việc giao nhận hàng và trả tiền giữa hai bên được thực hiện như sau:

- Về loại hàng vành xe máy tính đến thời điểm cuối cùng là ngày 24/10/2010, Công ty TL đã giao số lượng hàng trị giá 4.473.644.252 đồng, Công ty T đã trả 3.875.713.918 đồng, còn nợ là 597.930.334 đồng.

- Về loại hàng mặt nạ nhựa tính đến ngày 10/9/2010, Công ty TL đã giao trị giá 125.613.000 đồng, tính trừ một số hàng phải trả lại thì giá trị còn lại là 125.263.000 đồng, Công ty T chưa trả được đồng nào.

Tại biên bản đối chiếu công nợ này 17/11/2010, hai bên xác nhận: Tổng số tiền Công ty T còn nợ của Công ty TL là 729.193.334 đồng, trong đó nợ tiền vành xe máy là 597.930.334 đồng; tiền mặt nạ nhựa là 125.263.000 đồng và 6.000.000 đồng tiền khuôn đúc phía Công ty TL đã ứng trả thay cho Công ty T.

Sau khi chốt nhận nợ, Công ty TL đã nhiều lần đôn đốc, nhắc nợ; ngày 02/4/2011 Công ty T trả tiếp 50.000.000 đồng. Ngày 17/10/2011 Công ty TL đã có công văn số 101/2011/CV gửi Công ty T yêu cầu trả nốt số nợ gốc 679.193.334 đồng trước ngày 25/10/2011; mặc dù đã nhận được văn bản nhưng Công ty T không trả lời và cũng không thanh toán nợ. Do vậy, ngày 06/12/2011 Công ty TL đã có đơn khởi kiện yêu cầu buộc Công ty T phải trả số nợ gốc là 679.193.334 đồng.

Ngoài ra, Công ty TL còn yêu cầu Công ty T phải hoàn trả lãi phát sinh trong thời gian chậm thanh toán là 208.947.323 đồng (theo thỏa thuận trong hợp đồng là 05%/tháng trên số tiền chậm trả, thời gian chậm trả và lãi được tính lũy tiến, cộng lãi vào gốc để tính).

Tòa án đã thụ lý vụ việc và nhận định cách tính lãi lũy tiến lấy lãi cộng gốc để tính và lãi suất 05%/tháng là không phù hợp với quy định về lãi suất cho vay được quy định tại Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005.

Bình luận

- Thứ nhất: Sau ngày Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực, Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế hết hiệu lực thì không còn tồn tại khái niệm hợp đồng kinh tế. Vì vậy, việc các bên vẫn còn sử dụng thuật ngữ hợp đồng kinh tế trong giao kết hợp đồng là không chính xác.

- Thứ hai: Việc Tòa án áp dụng Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 để xem xét thỏa thuận của các bên về việc phạt lãi do vi phạm nghĩa vụ thanh toán gây nhiều băn khoăn bởi Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 chỉ quy định về lãi suất của hợp đồng vay. Quy định này có đương nhiên được áp dụng cho việc thỏa thuận về lãi suất phạt chậm thanh toán trong các hợp đồng thương mại theo Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 hay không cũng chưa thực sự rõ ràng.

Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

“1. Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng.

2. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời điểm trả nợ.”

Điều 306 Luật Thương mại năm 2005 quy định:

“Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”

Có quan điểm cho rằng, trong tình huống này hai bên đã có thỏa thuận khác nên thỏa thuận phạt này hoàn toàn phù hợp Điều 306 Luật Thương mại năm 2005, cần phải được chấp nhận. Tuy nhiên có quan điểm khác cho rằng dù các bên có thỏa thuận khác thì mức lãi phạt cũng không được cao hơn mức 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định. Như đã đề cập ở trên, liệu Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 về lãi suất trong hợp đồng vay có đương nhiên áp dụng cho các hợp đồng khác hay không? Quan điểm của tác giả là không áp dụng, bởi bản chất của thỏa thuận phạt vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong các hợp đồng thương mại là một chế tài để răn đe và trừng phạt các chủ thể cố tình vi phạm nghĩa vụ, không thuộc phạm vi  điều chỉnh về lãi suất cho vay để kiểm soát hoạt động cho vay, thực hiện chính sách về tiền tệ của Nhà nước. Do đó, không nhất thiết phải điều chỉnh bởi mức tỷ lệ do pháp luật quy định để tạo sự ổn định và cân bằng trong quản lý tiền tệ. Vậy nên, theo chúng tôi, trên thực tế xét xử các thẩm phán vẫn áp dụng Điều 476 Bộ luật Dân sự năm 2005 để xem xét về thỏa thuận phạt lãi trong các hợp đồng thương mại là không hợp lý.

- Thứ ba: Theo hợp đồng thì việc thanh toán phải thực hiện không quá 20 ngày đối với mặt nạ nhựa, không quá 30 ngày đối với vành xe máy kể từ ngày bên A giao hàng theo từng hóa đơn; ngoài thời hạn trên được coi là chậm trả. Như vậy, hết thời hạn này mà bên có nghĩa vụ vẫn không thanh toán là đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu phía Công ty TL không có ý kiến gì; các văn bản đối chiếu nợ cũng chỉ ghi nhận khoản nợ gốc mà không đề cập đến lãi quá hạn thì coi như Công ty TL đã mặc nhiên chấp nhận việc vi phạm. Do vậy, thời điểm tính lãi suất chậm thanh toán được lấy mốc từ ngày đối chiếu xác nhận công nợ chứ không phải tính từ mốc vi phạm theo thỏa thuận trong hợp đồng.

Nguồn: Bộ Tư Pháp