Ngày 15 tháng 9 năm 2010, bà Th ký với Công ty CBTHSXK - Việt Ph, hai hợp đồng không số, tên gọi là “Hợp đồng vay vốn để sản xuất kinh doanh” cùng do ông Trần Văn K nguyên giám đốc đại diện ký, cho Công ty vay 20.000 USD/1 hợp đồng, lãi suất 4,5%/tháng, thời hạn 06 tháng và 12 tháng. Trong hợp đồng, bên cho vay có ghi là bà Nguyễn Thị Th, địa chỉ 35 Nguyễn An N, quận 1 - Thành phố H; bên đi vay là Công ty CBTHSXK - Việt Ph, do ông Trần Văn K - Giám đốc, địa chỉ 57 Nguyễn T, quận 1, Thành phố H đại diện. Hợp đồng chỉ có chữ ký của ông K, không đóng dấu Công ty.
Thực hiện hợp đồng, bà Th đã giao cho ông K 38.000 USD, ông K đã trả được 3.353 USD nên vốn gốc chỉ còn là 34.647 USD. Khi bà Th giao USD cho ông K không có biên lai ký nhận của Kế toán trưởng hay Thủ quỹ của Công ty CBTHSXK - Việt Ph. Công ty CBTHSXK- Việt Ph không có lưu hợp đồng hoặc các chứng từ liên quan trong hồ sơ tại Phòng tài vụ - kế toán của Công ty CBTHSXK - Việt Ph. Ông Trần Văn K không báo việc ký kết, thực hiện hợp đồng với bà Th trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty CBTHSXK - Việt Ph.
Hết hạn thanh toán, bà Th kiện Công ty CBTHSXK - Việt Ph; yêu cầu Công ty CBTHSXK - Việt Ph phải trả cho bà Th các khoản tiền sau:
- Vốn gốc là 34.647 USD tương đương 557.123.760 đồng;
- Lãi là 733.354.928 đồng.
Tổng cộng tính tròn hai khoản là: 1.290.000.000 đồng.
Bình luận
- Thứ nhất: Về hình thức, hai “Hợp đồng vay vốn để kinh doanh” cùng ký ngày 15/9/2010 được xác lập giữa bà Th với Công ty CBTHSXK - Việt Ph. Tuy nhiên, thực tế thực hiện hợp đồng lại thể hiện đây là quan hệ cho vay giữa cá nhân với cá nhân (bà Th và ông K), với những tình tiết để chứng minh là việc giao tiền được thực hiện giữa cá nhân bà Th với ông K, không qua tài khoản Công ty, nội bộ Công ty không được biết về việc vay tiền này, hợp đồng không theo biểu mẫu hợp đồng của Công ty và không được đóng con dấu Công ty. Vì vậy, việc bà Th khởi kiện đề nghị Tòa án buộc chính Công ty CBTHSXK - Việt Ph trả nợ sẽ không được Tòa án chấp nhận.
Có quan điểm cho rằng, nếu hợp đồng được đóng dấu của Công ty, thì cho dù ông K đứng ra nhận tiền, không chuyển tiền cho Công ty, Công ty vẫn phải có nghĩa vụ trả nợ. Còn việc ông K sử dụng danh nghĩa của Công ty vay tiền, không trả được nợ, gây thiệt hại cho Công ty sẽ được xem xét ở quan hệ pháp luật khác. Quan điểm này cũng đã gây nhiều tranh cãi trong thực tiễn xét xử.
Vấn đề mấu chốt không phải là hợp đồng được đóng dấu Công ty hay không được đóng dấu Công ty vì xét cho cùng con dấu không làm thay đổi bản chất và hiệu lực của hợp đồng. Việc đóng dấu chỉ là sự xác thực về mặt hành chính chữ ký của người có thẩm quyền đại diện cho một tổ chức. Quan trọng là để làm rõ bản chất quan hệ cho vay được xác lập giữa bà Th với Công ty hay với cá nhân ông K, cần phải xác định:
+ Ý chí cho vay của bà Th là cho Công ty hay cá nhân ông K vay? Tại sao bà Th chuyển tiền cho cá nhân ông K mà không qua tài khoản, kế toán Công ty?
+ Ý chí của ông K là vay với danh nghĩa cá nhân hay dưới danh nghĩa đại diện cho Công ty? Tại sao ông K trực tiếp nhận tiền, trả tiền, không qua sổ sách kế toán Công ty, không thông báo việc vay nợ trong nội bộ Công ty?
Việc làm rõ ý chí của các bên, một mặt để xác định rõ bản chất quan hệ hợp đồng, mặt khác còn làm rõ hiệu lực của giao dịch (hợp đồng sẽ vô hiệu do bị lừa dối nếu ý chí bà Th là cho Công ty vay nhưng ông K đã lừa dối bà Th để bà Th giao tiền trực tiếp cho ông K) và làm rõ lỗi trong việc ông K lợi dụng danh nghĩa của Công ty để vay tiền, từ đó xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
- Thứ hai: Mặc dù khi yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp, bà Th đã quy đổi giá trị đòi nợ bằng tiền Việt, tuy nhiên việc cho vay bằng USD là đã vi phạm pháp luật nên hợp đồng sẽ bị Tòa án tuyên vô hiệu.
Theo quy định của Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối năm 2005 thì các giao dịch trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện bằng đồng tiền nội tệ. Vi phạm quy định này được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật và là một trong những căn cứ để tuyên hợp đồng vô hiệu theo Điều 122 Bộ luật Dân sự.
Điều 22 Pháp lệnh Quản lý ngoại hối quy định:
Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư trú không được thực hiện bằng ngoại hối, trừ các giao dịch với tổ chức tín dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, uỷ thác, đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép.
Điều 122 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.”
Và Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
“Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.”
Thực tiễn xét xử hiện nay cho thấy, các giao dịch được xác lập bằng ngoại tệ khi giải quyết Tòa án sẽ tuyên giao dịch vô hiệu vì cho rằng nội dung của hợp đồng đã vi phạm điều cấm của pháp luật (không được phép giao dịch bằng ngoại hối). Tuy nhiên, cũng có nhiều quan điểm khác nhau xung quanh vấn đề giao dịch được xác lập bằng ngoại tệ. Có quan điểm cho rằng việc vi phạm quy định về quản lý ngoại hối chỉ là sự vi phạm về quản lý hành chính và vì vậy các chủ thể chỉ phải chịu chế tài xử phạt vi phạm hành chính mà không làm vô hiệu hợp đồng. Tác giả cho rằng cần thiết phải làm rõ đối tượng của hợp đồng là gì, nếu đối tượng của hợp đồng là giao dịch cho vay thì lúc này nội dung của hợp đồng được coi là vi phạm điều cấm của pháp luật, còn nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hóa mua bán, dịch vụ thuê, mượn... thì việc các bên thỏa thuận đồng tiền thanh toán bằng ngoại tệ chỉ làm vô hiệu điều khoản về thanh toán chứ không làm cho nội dung của hợp đồng bị vi phạm điều cấm như cách hiểu hiện nay. Vì vậy, đối với những hợp đồng mua bán, thuê... mà các bên thỏa thuận thanh toán bằng ngoại tệ thì Tòa án chỉ tuyên vô hiệu điều khoản này và buộc các bên phải khôi phục tình trạng đã thực hiện cho đúng quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối.
Nguồn: Bộ Tư Pháp